1. Một số điểm mới trong chủ đề Đại hội XIII
Các
thành tố trong chủ đề Đại hội XIII so với Đại hội XII có một số điểm mới, đáng
chú ý là: (1) Bổ sung xây dựng hệ thống chính trị vào nội dung xây dựng Đảng
thành “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh”; (2) Nêu “khát vọng phát triển đất nước”; (3) Xác định mục tiêu “đến
giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa”.
2. Điểm mới trong hệ quan điểm chỉ
đạo
So
với các đại hội trước, Báo cáo chính trị Đại hội XIII có mục nêu hệ quan điểm
chỉ đạo. Đây là một trong những điểm mới nổi bật. Báo cáo chính trị nêu: Tiếp
tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, trong giai đoạn tới đòi hỏi toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân phải quán triệt trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn các quan điểm cơ bản sau:
- Quan điểm 1 nêu những vấn đề có tính nguyên tắc trong công cuộc
đổi mới: Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng
Đảng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. So với các đại
hội trước, Đại hội XIII bổ sung “kiên định các nguyên tắc xây
dựng Đảng”. Đây là những quan điểm có tính nguyên tắc, bất di, bất
dịch.
- Quan điểm 2 nêu chiến lược tổng thể phát triển đất nước nhanh, bền
vững: Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên
tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp
tác, cùng có lợi. Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt
chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là
trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh
thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.
- Quan điểm 3 nêu động lực phát triển: Khơi dậy mạnh mẽ
tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội
chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con
người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ
chế thu hút, trọng dụng nhân tài, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ
khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước.
- Quan điểm 4 nêu nguồn lực phát triển: Kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích
cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát huy tối đa nội lực,
tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người
là quan trọng nhất.
- Quan điểm 5 nêu những nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công sự
nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc: Tăng cường xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng cao năng lực
lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, xây dựng Nhà nước tinh gọn,
hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội
ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm
vụ, gắn bó mật thiết với nhân dân là những nhân tố có ý nghĩa quyết định thành
công của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc.
3. Điểm mới trong cách tiếp cận
xác định mục tiêu
Mục
tiêu tổng quát: Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực
cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với
Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước
phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết
hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
So
với Đại hội XII, Đại hội XIII bổ sung “năng lực cầm quyền” vào
nội dung “nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng”; bổ sung “hệ thống chính trị”, “ toàn diện”, “tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ
xã hội chủ nghĩa”; xác định “đến giữa thế kỷ XXI, nước ta
trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Mục
tiêu cụ thể:
- Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống
nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng
hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp.
- Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng:
Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.
- Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập Nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát
triển, thu nhập cao.
Việc
xác định mục tiêu như trên theo cách tiếp cận mới: Trình độ phát triển, trình
độ công nghiệp và thu nhập bình quân đầu người. Đây là tổng hợp cách tiếp cận
của Đảng ta trong 35 năm đổi mới và phù hợp với cách tiếp cận của thế giới.
4. Điểm mới trong định hướng phát triển đất
nước giai đoạn 2021 - 2030
Báo
cáo chính trị nêu định hướng phát triển đất nước 10 năm tới
(1) Định hướng về xây dựng, hoàn thiện thể chế: Tiếp tục
đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền
vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường..., tháo gỡ kịp thời
những khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực
mới cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
(2) Định hướng về phát triển kinh tế: Hoàn thiện toàn
diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực, thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh. Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đổi
mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước; tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển đô
thị; phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; đẩy mạnh
chuyển đổi số quốc gia; phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công
nghệ, đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh
tranh của nền kinh tế.
(3) Định hướng về phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ: Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân
tài. Thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, chú trọng một
số ngành, lĩnh vực trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế để làm động lực cho tăng
trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với
khu vực và thế giới.
(4)
Định hướng phát triển con người và xây dựng nền văn hóa: Phát
triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát
triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa.
Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi
dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển
đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt
Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước.
(5)
Định hướng về quản lý phát triển xã hội: Quản lý phát triển xã
hội có hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội; xây dựng môi trường văn hoá, đạo đức xã hội
lành mạnh, văn minh; chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, chất lượng dân
số, gắn dân số với phát triển; quan tâm đến mọi người dân, bảo đảm chính sách
lao động, việc làm, thu nhập, thực hiện tốt phúc lợi xã hội, an sinh xã hội.
Không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
(6) Định hướng về thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường: Chủ
động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên
tai, dịch bệnh; quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền
vững tài nguyên; lấy bảo vệ môi trường sống và sức khoẻ nhân dân làm mục tiêu
hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất
lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền
kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường.
(7)
Định hướng về bảo vệ Tổ quốc: Kiên quyết, kiên trì bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững an ninh chính
trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh kinh tế, an ninh mạng, an ninh
con người, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương. Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ
chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những nhân
tố bất lợi, nhất là những nhân tố có thể gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm
thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch.
(8) Định hướng về đối ngoại: Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn
diện, sâu rộng, có hiệu quả; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa
bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam.
(9)
Định hướng về đại đoàn kết toàn dân tộc: Thực hành và phát huy
rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò tự quản của nhân
dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin
của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới tổ chức, nội dung,
phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
(10)
Định hướng về xây dựng Nhà nước: Xây dụng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước. Tăng
cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với
siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công
chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí,
quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội.
(11)
Định hướng về xây dựng Đảng: Tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn
Đảng toàn diện; tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng; đổi mới phương
thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; xây dựng hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả;
xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là cán bộ cấp
chiến lược có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; làm tốt
công tác tư tưởng, lý luận; chú trọng công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị
nội bộ; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật và dân vận của Đảng.
(12)
Về các mối quan hệ lớn: Tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các
quan hệ lớn: Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn
thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa Nhà nước, thị trường và
xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội, bảo vệ môi trường; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ; giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế,
bảo đảm kỷ cương xã hội.
Văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh: Trong nhận thức và giải
quyết các quan hệ lớn, cần chú trọng hơn đến bảo đảm định hướng xã hội chủ
nghĩa; xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp; phát triển văn
hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa; giữ vững độc lập, tự chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân.
Trên
cơ sở định hướng phát triển đất nước nêu trong Báo cáo chính trị, Báo cáo xây
dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 đã xác định cụ thể
hơn, đầy đủ hơn.
5. Điểm
mới trong định hướng, nhiệm vụ, giải pháp trên các lĩnh vực chủ yếu 5 năm 2021
- 2025
Một
là, trên lĩnh vực kinh tế:
Tiếp
tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, chuyển mạnh nền kinh tế sang
mô hình tăng trưởng dựa trên tăng năng suất, tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi
mới sáng tạo, nhân lực chất lượng cao. Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh
tế. Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng của tiến bộ
khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững
mạnh. Phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới
theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh. Thực
hiện tốt hơn phát triển bền vững kinh tế biển. Xây dựng chiến lược, hoàn thiện
thể chế phát triển đô thị và kinh tế đô thị. Thống nhất và nâng cao nhận thức
về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục hoàn
thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tập trung
tháo gỡ các điểm nghẽn. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; nâng cao hiệu quả
hội nhập kinh tế quốc tế.
Hai
là, trên lĩnh vực văn hóa, xã hội:
Xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách để thực hiện
có hiệu quả chủ trương giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là
quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước. Xây dựng và
hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển giáo dục Việt Nam trong điều kiện
kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, lấy chất lượng và hiệu quả đầu ra làm
thước đo.
Thúc
đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học và công
nghệ. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ thể chế, chính sách ứng dụng, phát
triển khoa học và công nghệ.
Tập
trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị văn hóa và chuẩn
mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ gia đình Việt Nam trong thời kỳ
mới. Khẩn trương triển khai phát triển có trọng tâm, trọng điểm ngành công
nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa trên cơ sở xác định và phát huy sức mạnh mềm
của văn hóa Việt Nam, vận dụng có hiệu quả các giá trị và thành tựu của văn
hóa, khoa học, kỹ thuật công nghệ của thế giới.
Quản
lý phát triển xã hội bền vững, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội. Xây dựng và
thực hiện đồng bộ thể chế, chính sách phát triển xã hội, quản lý phát triển xã
hội bền vững, hài hòa. Xây dựng và thực thi có hiệu quả chính sách dân số và
phát triển, phát huy lợi thế thời kỳ dân số vàng, đồng thời chuẩn bị điều kiện
thích ứng với già hóa dân số, nâng cao chất lượng dân số, gắn với nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, bảo đảm mức tăng dân số hợp lý và cân bằng giới tính khi
sinh.
Quản
lý và sử dụng hiệu quả đất đai, tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động thích
ứng với biến đổi khí hậu. Xây dựng chiến lược, hoàn thiện hệ thống thể chế quản
lý, sử dụng có hiệu quả tài nguyên, trọng tâm là đất đai.
Ba
là, trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại:
Tăng
cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng quân đội, công an tinh, gọn,
mạnh. Đến năm 2030, xây dựng một số quân chủng, binh chủng, lực lượng hiện đại,
phấn đấu từ năm 2030 xây dựng quân đội, công an hiện đại; vững mạnh về chính
trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Xây dựng lực lượng dự bị động viên
hùng hậu và dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp trên các vùng, miền, trên biển.
Triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu
quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu
rộng. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ
bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác,
cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy
và thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Tiếp tục phát
huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường,
hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước,
nâng cao vị thế và uy tín của đất nước.
Bốn
là, trên lĩnh vực xây dựng Đảng và hệ thống chính trị:
Phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm
chủ của nhân dân. Thực hiện tốt, có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
Tiếp
tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống
chính trị.
Trong
những năm tới phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn
Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; nâng cao
hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; thắt chặt hơn nữa
mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng
Đảng; kiên quyết kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí,
với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ, triệt để hơn, hiệu quả hơn;
tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới.
6. Điểm mới trong xác định nhiệm vụ trọng tâm, các đột phá chiến
lược
Về
những nhiệm vụ trọng tâm
Đại
hội XII xác định 6 nhiệm vụ trọng tâm, Báo cáo chính trị trình Đại hội XIII
cũng nêu 6 nhiệm vụ trọng tâm. So với Đại hội XII, Báo cáo chính trị có 2 điểm
mới: (1) Về cơ cấu: Đại hội XII dành nhiệm vụ 1 và 2 về xây dựng Đảng, hệ thống
chính trị và đội ngũ cán bộ; Báo cáo chính trị dành nhiệm vụ thứ nhất về xây
dựng Đảng, hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ, thêm nhiệm vụ về tài nguyên,
môi trường, biến đổi khí hậu; (2) Nội dung từng nhiệm vụ trọng tâm có những nội
dung mới. Cụ thể như sau:
(1) Về xây dựng Đảng và hệ thống
chính trị, Báo cáo chính trị bổ sung yêu cầu đổi mới phương thức
lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống quan
liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm”, những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”; nhấn mạnh củng cố lòng tin, sự gắn bó của nhân dân với
Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.
(2) Về phát triển kinh tế, Báo
cáo chính trị bổ sung, nhấn mạnh xây dựng hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển
phù hợp với nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập; phát triển đồng
bộ và tạo ra sự liên kết giữa các khu vực, các vùng, các thành phần kinh tế,
các loại hình sản xuất kinh doanh và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là những
thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thực hiện chuyển đổi số
quốc gia, phát triển kinh tế số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức
cạnh tranh của nền kinh tế; huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực, tạo động lực để phát triển kinh tế nhanh và bền vững.
(3) Về quốc phòng, an ninh, đối ngoại, Báo cáo chính
trị nhấn mạnh: Giữ vững độc lập, tự chủ, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh,
kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát
triển đất nước.
(4) Về văn hóa, xã hội, Báo cáo chính trị bổ
sung, nhấn mạnh: Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước Việt Nam phồn vinh,
hạnh phúc; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế, nâng cao chất lượng cuộc
sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam.
(5) Về dân chủ xã hội chủ nghĩa, đại đoàn kết toàn dân tộc,
Báo cáo chính trị bổ sung và nhấn mạnh: Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật,
cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm
chủ của nhân dân; đồng thời tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, trước
hết là sự gương mẫu tuân theo pháp luật, kỷ cương, thực hành dân chủ xã hội chủ
nghĩa cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị
- xã hội các cấp, của cán bộ, đảng viên, tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc.
(6) Về tài nguyên, môi trường, biến đổi khí hậu, Báo
cáo chính trị nêu: Quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, hiệu quả đất đai, tài
nguyên; bảo vệ, cải thiện môi trường; chủ động, tích cực triển khai các giải
pháp thích ứng với biến đổi khí hậu.
Về các đột phá chiến lược
Ba
đột phá chiến lược do Đại hội lần thứ XI, XII của Đảng xác định có ý nghĩa, giá
trị lâu dài, vẫn còn nguyên giá trị và sẽ được cụ thể hóa phù hợp với từng giai
đoạn phát triển. So với Đại hội XII, Báo cáo chính trị bổ sung, nhấn mạnh những
nội dung sau:
(1) Về thể chế, Báo cáo chính trị mở rộng phạm vi
thành thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tập trung ưu tiên hoàn thiện đồng bộ, có
chất lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách, tạo
lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng, thúc đẩy đổi
mới sáng tạo; huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát
triển, nhất là đất đai, tài chính; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu
quả, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực bằng những
biện pháp hữu hiệu.
(2) Về nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, Báo cáo chính trị bổ sung ưu tiên phát triển nguồn
nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở
chú trọng nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất
lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài,
đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển khoa học - công nghệ,
đổi mới sáng tạo; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc,
phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, tinh thần đoàn kết, tự
hào dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
(3) Về hệ thống kết cấu hạ tầng, Báo cáo chính trị
nhấn mạnh yêu cầu xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về
kinh tế và xã hội theo hai hướng ưu tiên: Một là, phát triển
một số công trình trọng điểm quốc gia về giao thông, thích ứng với biến đổi khí
hậu. Hai là, chú trọng phát triển hạ tầng thông tin, viễn
thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số, xã
hội số.
Sự cụ thể hóa 3 đột phá chiến lược của Đại hội XI,
XII vào giai đoạn 5 năm 2021-2025 là một điểm mới của Báo cáo chính trị trình
Đại hội XIII của Đảng.
Các
văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã tiếp thu có chọn lọc những giá trị chung của
nhân loại
Một
là, về kinh tế thị trường
Kinh
tế thị trường là giá trị chung của nhân loại, được phát triển trong chủ nghĩa
tư bản. Từ Đại hội IX, Đảng ta đã khẳng định: Kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Kế thừa Đại hội XII, Văn kiện Đại hội XIII nêu: Đó là nền
kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo
các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội
chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù
hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, trong đó: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh
tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động
lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng được khuyến khích
phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội.
Văn
kiện Đại hội XIII nêu rõ vị trí, vai trò của các thành
phần kinh tế. Kinh tế nhà nước là công cụ, lực lượng vật chất quan
trọng để Nhà nước giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn
dắt thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế
thị trường. Các nguồn lực kinh tế của Nhà nước được sử dụng phù hợp với chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển đất nước và cơ bản được phân bổ theo cơ
chế thị trường. Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào lĩnh vực then chốt, địa bàn
quan trọng, quốc phòng, an ninh; hoạt động theo cơ chế thị trường, quản trị
hiện đại theo chuẩn mực quốc tế; lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ
yếu, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Kinh
tế tập thể, kinh tế hợp tác, các hợp tác xã, tổ hợp tác có vai trò cung cấp
dịch vụ cho các thành viên; liên kết, phối hợp sản xuất kinh doanh, bảo vệ lợi
ích và tạo điều kiện để các thành viên nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất
kinh doanh, phát triển bền vững. Tăng cường liên kết giữa các hợp tác xã, hình
thành các hiệp hội, liên hiệp hợp tác xã.
Kinh
tế tư nhân được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp
luật không cấm, nhất là trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, dịch vụ, được hỗ
trợ phát triển thành các công ty, tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh
tranh cao. Khuyến khích doanh nghiệp tư nhân hợp tác, liên kết với doanh nghiệp
nhà nước, hợp tác xã, kinh tế hộ; phát triển các công ty cổ phần có sự tham gia
rộng rãi của các chủ thể xã hội, nhất là người lao động.
Kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng của kinh tế quốc dân, có
vai trò lớn trong huy động nguồn vốn đầu tư, công nghệ, phương thức quản lý
hiện đại, mở rộng thị trường xuất khẩu.
Văn
kiện Đại hội XIII xác định mối quan hệ giữa Nhà nước, thị
trường và xã hội: Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, giữa Nhà nước, thị trường và xã hội có quan hệ chặt chẽ. Nhà
nước xây dựng và hoàn thiện thể chế, bảo vệ quyền tài sản, quyền kinh doanh,
giữ ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn của nền kinh tế; tạo môi trường
thuận lợi, công khai, minh bạch cho các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và thị
trường hoạt động; điều tiết, định hướng, thúc đẩy kinh tế phát triển, gắn kết
phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, bảo vệ môi trường, bảo đảm
quốc phòng, an ninh. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng luật pháp, cơ chế, chính
sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các tiêu chuẩn, định mức và lực lượng
kinh tế nhà nước phù hợp với các yêu cầu và quy luật của kinh tế thị trường.
Thị trường đóng vai trò quyết định trong xác định giá cả hàng hoá, dịch vụ; tạo
động lực huy động, phân bổ các nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu thông; điều
tiết hoạt động của doanh nghiệp, thanh lọc những doanh nghiệp yếu kém. Các tổ
chức xã hội có vai trò tạo sự liên kết, phối hợp hoạt động, giải quyết những
vấn đề phát sinh giữa các thành viên; đại diện và bảo vệ lợi ích của các thành
viên trong quan hệ với các chủ thể, đối tác khác; cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho
các thành viên; phản ánh nguyện vọng, lợi ích của các tầng lớp nhân dân với Nhà
nước và tham gia phản biện luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước, giám sát
các cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong việc thực thi pháp
luật.
Hai
là, về nhà nước pháp quyền
Từ Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII, Đảng ta đã
chính thức sử dụng khái niệm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nhĩa và được tiếp
tục được phát triển qua các kỳ đại hội. So với Đại hội XII, Báo cáo chính trị
xác định rõ hơn nhiệm vụ, giải pháp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa: Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ
trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả
hoạt động của Nhà nước. Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và
quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường
kiểm soát quyền lực nhà nước. Xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất,
hiện đại, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp
của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm
yêu cầu phát triển nhanh, bền vững.
Ba
là, về dân chủ
Dân chủ là giá trị chung của nhân loại. Từ khi ra đời đến
nay, Đảng ta nhận thức ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn bản chất, vị trí, vai
trò của dân chủ và phát huy dân chủ. So với Đại hội XII, Báo cáo chính trị xác
định rõ hơn nhiệm vụ, giải pháp phát huy dân chủ: Tiếp tục cụ thể hoá, hoàn
thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và
Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Thực
hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân
chủ ở cơ sở. Thực hiện tốt, có hiệu quả trên thực tế phương châm “Dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
làm nòng cốt để nhân dân làm chủ. Cấp uỷ, tổ chức đảng, các tổ chức trong hệ
thống chính trị, đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức nêu gương thực
hành dân chủ, tuân thủ pháp luật, đề cao đạo đức xã hội. Đảng và Nhà nước ban
hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp
lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Đề cao vai trò chủ
thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong
toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy tính tích cực chính trị
- xã hội, trí tuệ, quyền và trách nhiệm của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức;
động viên nhân dân tham gia phát triển kinh tế; quản lý và tự quản xã hội; xây
dựng, quản lý, thụ hưởng văn hoá; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh
nhân dân, ngoại giao nhân dân gắn với thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an
ninh nhân dân, thế trận lòng dân. Xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá
nhân lợi dụng dân chủ, gây rối nội bộ, làm mất ổn định chính trị - xã hội hoặc
vi phạm dân chủ, làm phương hại đến quyền làm chủ của nhân dân.
Bốn
là, về hạnh phúc
Sau
Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Quốc
hiệu của nước ta là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Độc lập - Tự do - Hạnh phúc. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đề cao giá trị hạnh phúc. Các văn kiện Đại hội XIII đề cao
khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, đem lại hạnh phúc cho nhân
dân. Thế giới hiện nay rất coi trọng chỉ số hạnh phúc của người dân để đánh giá
về sự tiến bộ, ưu việt của các quốc gia. Đây cũng là một điểm nhấn trong các
văn kiện tại Đại hội XIII./.
Đoàn Thuận
(tổng hợp)
1. Một số điểm mới trong chủ đề Đại hội XIII
Các
thành tố trong chủ đề Đại hội XIII so với Đại hội XII có một số điểm mới, đáng
chú ý là: (1) Bổ sung xây dựng hệ thống chính trị vào nội dung xây dựng Đảng
thành “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh”; (2) Nêu “khát vọng phát triển đất nước”; (3) Xác định mục tiêu “đến
giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa”.
2. Điểm mới trong hệ quan điểm chỉ
đạo
So
với các đại hội trước, Báo cáo chính trị Đại hội XIII có mục nêu hệ quan điểm
chỉ đạo. Đây là một trong những điểm mới nổi bật. Báo cáo chính trị nêu: Tiếp
tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, trong giai đoạn tới đòi hỏi toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân phải quán triệt trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn các quan điểm cơ bản sau:
- Quan điểm 1 nêu những vấn đề có tính nguyên tắc trong công cuộc
đổi mới: Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng
Đảng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. So với các đại
hội trước, Đại hội XIII bổ sung “kiên định các nguyên tắc xây
dựng Đảng”. Đây là những quan điểm có tính nguyên tắc, bất di, bất
dịch.
- Quan điểm 2 nêu chiến lược tổng thể phát triển đất nước nhanh, bền
vững: Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên
tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp
tác, cùng có lợi. Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt
chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là
trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh
thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.
- Quan điểm 3 nêu động lực phát triển: Khơi dậy mạnh mẽ
tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội
chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con
người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ
chế thu hút, trọng dụng nhân tài, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ
khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước.
- Quan điểm 4 nêu nguồn lực phát triển: Kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích
cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát huy tối đa nội lực,
tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người
là quan trọng nhất.
- Quan điểm 5 nêu những nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công sự
nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ quốc: Tăng cường xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng cao năng lực
lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, xây dựng Nhà nước tinh gọn,
hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội
ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm
vụ, gắn bó mật thiết với nhân dân là những nhân tố có ý nghĩa quyết định thành
công của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc.
3. Điểm mới trong cách tiếp cận
xác định mục tiêu
Mục
tiêu tổng quát: Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực
cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong
sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với
Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước
phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết
hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
So
với Đại hội XII, Đại hội XIII bổ sung “năng lực cầm quyền” vào
nội dung “nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng”; bổ sung “hệ thống chính trị”, “ toàn diện”, “tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ
xã hội chủ nghĩa”; xác định “đến giữa thế kỷ XXI, nước ta
trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Mục
tiêu cụ thể:
- Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống
nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng
hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp.
- Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng:
Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.
- Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập Nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát
triển, thu nhập cao.
Việc
xác định mục tiêu như trên theo cách tiếp cận mới: Trình độ phát triển, trình
độ công nghiệp và thu nhập bình quân đầu người. Đây là tổng hợp cách tiếp cận
của Đảng ta trong 35 năm đổi mới và phù hợp với cách tiếp cận của thế giới.
4. Điểm mới trong định hướng phát triển đất
nước giai đoạn 2021 - 2030
Báo
cáo chính trị nêu định hướng phát triển đất nước 10 năm tới
(1) Định hướng về xây dựng, hoàn thiện thể chế: Tiếp tục
đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền
vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường..., tháo gỡ kịp thời
những khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực
mới cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
(2) Định hướng về phát triển kinh tế: Hoàn thiện toàn
diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực, thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh. Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đổi
mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước; tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển đô
thị; phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; đẩy mạnh
chuyển đổi số quốc gia; phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công
nghệ, đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh
tranh của nền kinh tế.
(3) Định hướng về phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công
nghệ: Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân
tài. Thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cuộc Cách
mạng công nghiệp lần thứ tư vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, chú trọng một
số ngành, lĩnh vực trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế để làm động lực cho tăng
trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với
khu vực và thế giới.
(4)
Định hướng phát triển con người và xây dựng nền văn hóa: Phát
triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát
triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa.
Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi
dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển
đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt
Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước.
(5)
Định hướng về quản lý phát triển xã hội: Quản lý phát triển xã
hội có hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội; xây dựng môi trường văn hoá, đạo đức xã hội
lành mạnh, văn minh; chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, chất lượng dân
số, gắn dân số với phát triển; quan tâm đến mọi người dân, bảo đảm chính sách
lao động, việc làm, thu nhập, thực hiện tốt phúc lợi xã hội, an sinh xã hội.
Không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
(6) Định hướng về thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường: Chủ
động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên
tai, dịch bệnh; quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền
vững tài nguyên; lấy bảo vệ môi trường sống và sức khoẻ nhân dân làm mục tiêu
hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất
lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền
kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường.
(7)
Định hướng về bảo vệ Tổ quốc: Kiên quyết, kiên trì bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững an ninh chính
trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh kinh tế, an ninh mạng, an ninh
con người, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương. Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ
chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những nhân
tố bất lợi, nhất là những nhân tố có thể gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm
thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch.
(8) Định hướng về đối ngoại: Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn
diện, sâu rộng, có hiệu quả; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa
bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam.
(9)
Định hướng về đại đoàn kết toàn dân tộc: Thực hành và phát huy
rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò tự quản của nhân
dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin
của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới tổ chức, nội dung,
phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.
(10)
Định hướng về xây dựng Nhà nước: Xây dụng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước. Tăng
cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với
siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công
chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí,
quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội.
(11)
Định hướng về xây dựng Đảng: Tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn
Đảng toàn diện; tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng; đổi mới phương
thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; xây dựng hệ
thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả;
xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là cán bộ cấp
chiến lược có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; làm tốt
công tác tư tưởng, lý luận; chú trọng công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị
nội bộ; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật và dân vận của Đảng.
(12)
Về các mối quan hệ lớn: Tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các
quan hệ lớn: Quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn
thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa Nhà nước, thị trường và
xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội, bảo vệ môi trường; giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ; giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế,
bảo đảm kỷ cương xã hội.
Văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh: Trong nhận thức và giải
quyết các quan hệ lớn, cần chú trọng hơn đến bảo đảm định hướng xã hội chủ
nghĩa; xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp; phát triển văn
hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường; bảo vệ Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa; giữ vững độc lập, tự chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân.
Trên
cơ sở định hướng phát triển đất nước nêu trong Báo cáo chính trị, Báo cáo xây
dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 đã xác định cụ thể
hơn, đầy đủ hơn.
5. Điểm
mới trong định hướng, nhiệm vụ, giải pháp trên các lĩnh vực chủ yếu 5 năm 2021
- 2025
Một
là, trên lĩnh vực kinh tế:
Tiếp
tục đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế, chuyển mạnh nền kinh tế sang
mô hình tăng trưởng dựa trên tăng năng suất, tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi
mới sáng tạo, nhân lực chất lượng cao. Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh
tế. Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng của tiến bộ
khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững
mạnh. Phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới
theo hướng nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh. Thực
hiện tốt hơn phát triển bền vững kinh tế biển. Xây dựng chiến lược, hoàn thiện
thể chế phát triển đô thị và kinh tế đô thị. Thống nhất và nâng cao nhận thức
về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục hoàn
thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tập trung
tháo gỡ các điểm nghẽn. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; nâng cao hiệu quả
hội nhập kinh tế quốc tế.
Hai
là, trên lĩnh vực văn hóa, xã hội:
Xây dựng đồng bộ thể chế, chính sách để thực hiện
có hiệu quả chủ trương giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là
quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển đất nước. Xây dựng và
hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển giáo dục Việt Nam trong điều kiện
kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, lấy chất lượng và hiệu quả đầu ra làm
thước đo.
Thúc
đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học và công
nghệ. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ thể chế, chính sách ứng dụng, phát
triển khoa học và công nghệ.
Tập
trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị văn hóa và chuẩn
mực con người gắn với giữ gìn, phát triển hệ gia đình Việt Nam trong thời kỳ
mới. Khẩn trương triển khai phát triển có trọng tâm, trọng điểm ngành công
nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa trên cơ sở xác định và phát huy sức mạnh mềm
của văn hóa Việt Nam, vận dụng có hiệu quả các giá trị và thành tựu của văn
hóa, khoa học, kỹ thuật công nghệ của thế giới.
Quản
lý phát triển xã hội bền vững, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội. Xây dựng và
thực hiện đồng bộ thể chế, chính sách phát triển xã hội, quản lý phát triển xã
hội bền vững, hài hòa. Xây dựng và thực thi có hiệu quả chính sách dân số và
phát triển, phát huy lợi thế thời kỳ dân số vàng, đồng thời chuẩn bị điều kiện
thích ứng với già hóa dân số, nâng cao chất lượng dân số, gắn với nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, bảo đảm mức tăng dân số hợp lý và cân bằng giới tính khi
sinh.
Quản
lý và sử dụng hiệu quả đất đai, tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động thích
ứng với biến đổi khí hậu. Xây dựng chiến lược, hoàn thiện hệ thống thể chế quản
lý, sử dụng có hiệu quả tài nguyên, trọng tâm là đất đai.
Ba
là, trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại:
Tăng
cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng quân đội, công an tinh, gọn,
mạnh. Đến năm 2030, xây dựng một số quân chủng, binh chủng, lực lượng hiện đại,
phấn đấu từ năm 2030 xây dựng quân đội, công an hiện đại; vững mạnh về chính
trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Xây dựng lực lượng dự bị động viên
hùng hậu và dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp trên các vùng, miền, trên biển.
Triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu
quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu
rộng. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ
bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác,
cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích
cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy
và thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Tiếp tục phát
huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường,
hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước,
nâng cao vị thế và uy tín của đất nước.
Bốn
là, trên lĩnh vực xây dựng Đảng và hệ thống chính trị:
Phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm
chủ của nhân dân. Thực hiện tốt, có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
Tiếp
tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống
chính trị.
Trong
những năm tới phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn
Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; nâng cao
hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; thắt chặt hơn nữa
mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng
Đảng; kiên quyết kiên trì đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí,
với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ, triệt để hơn, hiệu quả hơn;
tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới.
6. Điểm mới trong xác định nhiệm vụ trọng tâm, các đột phá chiến
lược
Về
những nhiệm vụ trọng tâm
Đại
hội XII xác định 6 nhiệm vụ trọng tâm, Báo cáo chính trị trình Đại hội XIII
cũng nêu 6 nhiệm vụ trọng tâm. So với Đại hội XII, Báo cáo chính trị có 2 điểm
mới: (1) Về cơ cấu: Đại hội XII dành nhiệm vụ 1 và 2 về xây dựng Đảng, hệ thống
chính trị và đội ngũ cán bộ; Báo cáo chính trị dành nhiệm vụ thứ nhất về xây
dựng Đảng, hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ, thêm nhiệm vụ về tài nguyên,
môi trường, biến đổi khí hậu; (2) Nội dung từng nhiệm vụ trọng tâm có những nội
dung mới. Cụ thể như sau:
(1) Về xây dựng Đảng và hệ thống
chính trị, Báo cáo chính trị bổ sung yêu cầu đổi mới phương thức
lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống quan
liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm”, những biểu hiện “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”; nhấn mạnh củng cố lòng tin, sự gắn bó của nhân dân với
Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.
(2) Về phát triển kinh tế, Báo
cáo chính trị bổ sung, nhấn mạnh xây dựng hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển
phù hợp với nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập; phát triển đồng
bộ và tạo ra sự liên kết giữa các khu vực, các vùng, các thành phần kinh tế,
các loại hình sản xuất kinh doanh và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là những
thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thực hiện chuyển đổi số
quốc gia, phát triển kinh tế số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức
cạnh tranh của nền kinh tế; huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực, tạo động lực để phát triển kinh tế nhanh và bền vững.
(3) Về quốc phòng, an ninh, đối ngoại, Báo cáo chính
trị nhấn mạnh: Giữ vững độc lập, tự chủ, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả
hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh,
kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát
triển đất nước.
(4) Về văn hóa, xã hội, Báo cáo chính trị bổ
sung, nhấn mạnh: Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước Việt Nam phồn vinh,
hạnh phúc; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế, nâng cao chất lượng cuộc
sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam.
(5) Về dân chủ xã hội chủ nghĩa, đại đoàn kết toàn dân tộc,
Báo cáo chính trị bổ sung và nhấn mạnh: Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật,
cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm
chủ của nhân dân; đồng thời tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, trước
hết là sự gương mẫu tuân theo pháp luật, kỷ cương, thực hành dân chủ xã hội chủ
nghĩa cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và tổ chức chính trị
- xã hội các cấp, của cán bộ, đảng viên, tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc.
(6) Về tài nguyên, môi trường, biến đổi khí hậu, Báo
cáo chính trị nêu: Quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, hiệu quả đất đai, tài
nguyên; bảo vệ, cải thiện môi trường; chủ động, tích cực triển khai các giải
pháp thích ứng với biến đổi khí hậu.
Về các đột phá chiến lược
Ba
đột phá chiến lược do Đại hội lần thứ XI, XII của Đảng xác định có ý nghĩa, giá
trị lâu dài, vẫn còn nguyên giá trị và sẽ được cụ thể hóa phù hợp với từng giai
đoạn phát triển. So với Đại hội XII, Báo cáo chính trị bổ sung, nhấn mạnh những
nội dung sau:
(1) Về thể chế, Báo cáo chính trị mở rộng phạm vi
thành thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tập trung ưu tiên hoàn thiện đồng bộ, có
chất lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách, tạo
lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng, thúc đẩy đổi
mới sáng tạo; huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát
triển, nhất là đất đai, tài chính; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu
quả, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực bằng những
biện pháp hữu hiệu.
(2) Về nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, Báo cáo chính trị bổ sung ưu tiên phát triển nguồn
nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở
chú trọng nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất
lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài,
đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển khoa học - công nghệ,
đổi mới sáng tạo; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc,
phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, tinh thần đoàn kết, tự
hào dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
(3) Về hệ thống kết cấu hạ tầng, Báo cáo chính trị
nhấn mạnh yêu cầu xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về
kinh tế và xã hội theo hai hướng ưu tiên: Một là, phát triển
một số công trình trọng điểm quốc gia về giao thông, thích ứng với biến đổi khí
hậu. Hai là, chú trọng phát triển hạ tầng thông tin, viễn
thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số, xã
hội số.
Sự cụ thể hóa 3 đột phá chiến lược của Đại hội XI,
XII vào giai đoạn 5 năm 2021-2025 là một điểm mới của Báo cáo chính trị trình
Đại hội XIII của Đảng.
Các
văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã tiếp thu có chọn lọc những giá trị chung của
nhân loại
Một
là, về kinh tế thị trường
Kinh
tế thị trường là giá trị chung của nhân loại, được phát triển trong chủ nghĩa
tư bản. Từ Đại hội IX, Đảng ta đã khẳng định: Kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Kế thừa Đại hội XII, Văn kiện Đại hội XIII nêu: Đó là nền
kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo
các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội
chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù
hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần
kinh tế, trong đó: Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh
tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động
lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng được khuyến khích
phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội.
Văn
kiện Đại hội XIII nêu rõ vị trí, vai trò của các thành
phần kinh tế. Kinh tế nhà nước là công cụ, lực lượng vật chất quan
trọng để Nhà nước giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn
dắt thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế
thị trường. Các nguồn lực kinh tế của Nhà nước được sử dụng phù hợp với chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển đất nước và cơ bản được phân bổ theo cơ
chế thị trường. Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào lĩnh vực then chốt, địa bàn
quan trọng, quốc phòng, an ninh; hoạt động theo cơ chế thị trường, quản trị
hiện đại theo chuẩn mực quốc tế; lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ
yếu, cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Kinh
tế tập thể, kinh tế hợp tác, các hợp tác xã, tổ hợp tác có vai trò cung cấp
dịch vụ cho các thành viên; liên kết, phối hợp sản xuất kinh doanh, bảo vệ lợi
ích và tạo điều kiện để các thành viên nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất
kinh doanh, phát triển bền vững. Tăng cường liên kết giữa các hợp tác xã, hình
thành các hiệp hội, liên hiệp hợp tác xã.
Kinh
tế tư nhân được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp
luật không cấm, nhất là trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, dịch vụ, được hỗ
trợ phát triển thành các công ty, tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có sức cạnh
tranh cao. Khuyến khích doanh nghiệp tư nhân hợp tác, liên kết với doanh nghiệp
nhà nước, hợp tác xã, kinh tế hộ; phát triển các công ty cổ phần có sự tham gia
rộng rãi của các chủ thể xã hội, nhất là người lao động.
Kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận quan trọng của kinh tế quốc dân, có
vai trò lớn trong huy động nguồn vốn đầu tư, công nghệ, phương thức quản lý
hiện đại, mở rộng thị trường xuất khẩu.
Văn
kiện Đại hội XIII xác định mối quan hệ giữa Nhà nước, thị
trường và xã hội: Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, giữa Nhà nước, thị trường và xã hội có quan hệ chặt chẽ. Nhà
nước xây dựng và hoàn thiện thể chế, bảo vệ quyền tài sản, quyền kinh doanh,
giữ ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn của nền kinh tế; tạo môi trường
thuận lợi, công khai, minh bạch cho các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và thị
trường hoạt động; điều tiết, định hướng, thúc đẩy kinh tế phát triển, gắn kết
phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, bảo vệ môi trường, bảo đảm
quốc phòng, an ninh. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng luật pháp, cơ chế, chính
sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các tiêu chuẩn, định mức và lực lượng
kinh tế nhà nước phù hợp với các yêu cầu và quy luật của kinh tế thị trường.
Thị trường đóng vai trò quyết định trong xác định giá cả hàng hoá, dịch vụ; tạo
động lực huy động, phân bổ các nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu thông; điều
tiết hoạt động của doanh nghiệp, thanh lọc những doanh nghiệp yếu kém. Các tổ
chức xã hội có vai trò tạo sự liên kết, phối hợp hoạt động, giải quyết những
vấn đề phát sinh giữa các thành viên; đại diện và bảo vệ lợi ích của các thành
viên trong quan hệ với các chủ thể, đối tác khác; cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho
các thành viên; phản ánh nguyện vọng, lợi ích của các tầng lớp nhân dân với Nhà
nước và tham gia phản biện luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước, giám sát
các cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong việc thực thi pháp
luật.
Hai
là, về nhà nước pháp quyền
Từ Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII, Đảng ta đã
chính thức sử dụng khái niệm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nhĩa và được tiếp
tục được phát triển qua các kỳ đại hội. So với Đại hội XII, Báo cáo chính trị
xác định rõ hơn nhiệm vụ, giải pháp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa: Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ
trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả
hoạt động của Nhà nước. Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và
quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường
kiểm soát quyền lực nhà nước. Xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất,
hiện đại, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp
của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm
yêu cầu phát triển nhanh, bền vững.
Ba
là, về dân chủ
Dân chủ là giá trị chung của nhân loại. Từ khi ra đời đến
nay, Đảng ta nhận thức ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn bản chất, vị trí, vai
trò của dân chủ và phát huy dân chủ. So với Đại hội XII, Báo cáo chính trị xác
định rõ hơn nhiệm vụ, giải pháp phát huy dân chủ: Tiếp tục cụ thể hoá, hoàn
thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và
Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Thực
hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân
chủ ở cơ sở. Thực hiện tốt, có hiệu quả trên thực tế phương châm “Dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
Đảng
lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội
làm nòng cốt để nhân dân làm chủ. Cấp uỷ, tổ chức đảng, các tổ chức trong hệ
thống chính trị, đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức nêu gương thực
hành dân chủ, tuân thủ pháp luật, đề cao đạo đức xã hội. Đảng và Nhà nước ban
hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp
lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Đề cao vai trò chủ
thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong
toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy tính tích cực chính trị
- xã hội, trí tuệ, quyền và trách nhiệm của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức;
động viên nhân dân tham gia phát triển kinh tế; quản lý và tự quản xã hội; xây
dựng, quản lý, thụ hưởng văn hoá; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh
nhân dân, ngoại giao nhân dân gắn với thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an
ninh nhân dân, thế trận lòng dân. Xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá
nhân lợi dụng dân chủ, gây rối nội bộ, làm mất ổn định chính trị - xã hội hoặc
vi phạm dân chủ, làm phương hại đến quyền làm chủ của nhân dân.
Bốn
là, về hạnh phúc
Sau
Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Quốc
hiệu của nước ta là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Độc lập - Tự do - Hạnh phúc. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đề cao giá trị hạnh phúc. Các văn kiện Đại hội XIII đề cao
khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, đem lại hạnh phúc cho nhân
dân. Thế giới hiện nay rất coi trọng chỉ số hạnh phúc của người dân để đánh giá
về sự tiến bộ, ưu việt của các quốc gia. Đây cũng là một điểm nhấn trong các
văn kiện tại Đại hội XIII./.
Đoàn Thuận
(tổng hợp)